Hỏi: Năm 1983, gia đình tôi chuyển công tác về huyện Thủ Thừa, Long An. Lúc ấy do điều kiện đi lại, làm việc tại huyện khó khăn, gia đình tôi cất nhà ở trên phần đất khu đất do Nhà nước quản lý với diện tích 30 m2.
Đến năm 1985, tôi có làm đơn xin hợp thức hóa căn nhà và phần đất mà tôi sử dụng. Năm 1986, tôi được bí thư Huyện ủy và Thường trực UBND huyện đồng ý cho sử dụng phần diện tích đất trên bằng cách phê duyệt ngay trên tờ đơn. Thời gian sử dụng từ mảnh đất có diện tích 30 m2 gia đình tôi đã bồi đắp, san lấp hiện khu đất có diện tích khoảng 600 m2 và tôi có đóng thuế sử dụng đất đầy đủ.
Năm 2003, tôi có nguyện vọng xin được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tôi đã làm thủ tục xin cấp giấy. Đến năm 2010, ông phó phòng TN&MT huyện có mời gia đình tôi đến trao đổi, huyện đã đồng ý cấp 200 m2 đất cho tôi, phần đất còn lại chuyển qua thuê. Tuy nhiên, thời gian sau, huyện lại trả lời cho gia đình tôi biết là trường hợp của tôi không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo quy định thì điều kiện như thế nào mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong trường hợp của tôi.
Ông Võ Văn Phấn
(2/14 ấp Cầu Xây, thị trấn Thủ Thừa, huyện Thủ Thừa, Tp.HCM)
Ảnh minh họa |
Trả lời:
Điều 101 của Luật Đất đai năm 2013 quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất như sau:
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của luật này (như những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước 15/10/1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính trước 15/10/1993; giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất…), có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, nay được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước 1/7/2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được UBND cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Luật sư Trần Ngọc Quý
(Đoàn Luật sư Tp.HCM)